GD&TĐ - Tại Hội nghị tham vấn các chuyên gia về sửa đổi bổ, sung một số điều của Luật Giáo dục, do Bộ GD&ĐT vừa tổ chức mới đây, GS.TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho rằng, sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục là một cơ hội quan trọng để đưa được một số vấn đề cơ bản của việc tổ chức xã hội học tập và triển khai việc học tập suốt đời vào Luật.
Xây dựng xã hội học tập đủ các thiết chế GD
Theo GS Phạm Tất Dong, vấn đề học tập suốt đời đã được thế giới đặt ra từ sau Đại chiến thế giới lần thứ II và được đặc biệt chú ý thúc đẩy khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 tạo ra những cơ sở vật chất và kỹ thuật cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Khái niệm xã hội học tập cũng dần dần được đưa vào các văn kiện về Chiến lược phát triển giáo dục của nhiều quốc gia.
Người ta chủ trương xây dựng xã hội học tập chứ không phải là xã hội giáo dục, bởi vậy việc xây dựng một xã hội mà trong đó có đủ các thiết chế giáo dục là quá cần, có thể làm được nếu có quyết tâm chiến lược và sẽ thuận lợi hơn khi giàu có, nhưng để từng người dân (không phân biệt giới tính, tuổi tác, thành phần xã hội, trình độ nghề nghiệp, dân tộc, địa vị xã hội…) tự giác học tập suốt đời, coi học như một nghĩa vụ công dân, thì không phải là chuyện dễ dàng.
Bản thân Bộ luật Giáo dục hiện hành đang thể hiện khá rõ nét nước ta là một xã hội giáo dục đang phát triển, nhưng qua Bộ luật này, xã hội học tập vẫn là một hình ảnh mờ nhạt.
GS Phạm Tất Dong nói: “Xét từ góc độ xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập để nhìn vào nội dung Luật Giáo dục hiện nay, chúng tôi nhận thấy rằng: Người lớn là đối tượng chính của việc tổ chức học tập suốt đời, bởi hệ giáo dục ban đầu sẽ đồng hành với thế hệ trẻ cho đến khi họ học xong bậc học cao nhất là đại học (khoảng 22 - 23 năm), sau khi học xong vòng đầu này thì tất cả đều đi vào vòng giáo dục thứ hai và giáo dục lần này sẽ đi theo con người cho đến khi họ kết thúc cuộc sống”.
GS Phạm Tất Dong kiến nghị, trong Luật Giáo dục bổ sung, nhất thiết phải cân đối các điều, các khoản về giáo dục ban đầu và giáo dục tiếp tục. Như vậy, chúng ta mới có hệ thống giáo dục mở đích thực.
Trong Luật nên dùng những khái niệm giáo dục người lớn và việc học tập của người lớn. Có người rất ngại cụm từ giáo dục người lớn. Đó là một sự vô lý. Trên thế giới, cứ khoảng 5 – 6 năm lại có một hội nghị quốc tế về giáo dục người lớn. Đến năm 2015, đã có 11 hội nghị quốc tế về giáo dục người lớn được tổ chức. Tiếc rằng, Việt Nam chưa bao giờ có đại biểu đi dự những hội nghị này.
Trong Luật cần có điều khẳng định về tầm quan trọng của giáo dục không chính quy cho người lớn, khẳng định phải đầu tư hơn nữa cho sự phát triển các cơ sở giáo dục không chính quy để hơn 60 triệu người lớn (từ người bắt đầu đi vào lao động cho đến những người về hưu, những người cao niên) để tạo ra những điều kiện thuận lợi, giúp người lớn tiến hành việc học tập của mình.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét